
Bài tập lớn Luật Tài chính
MỞ ĐẦU
Bên cạnh doanh nghiệp, hộ kinh doanh cũng là một loại chủ thể kinh doanh chiếm số lượng đông đảo trong nền kinh tế nước ta. Mặc dù hầu hết đều quy mô không lớn, hoạt động nhỏ lẻ, nhưng hộ kinh doanh cũng đóng góp một vai trò nhất định trong tổng thu ngân sách nhà nước. Vậy hộ kinh doanh cần phải nộp những loại thuế nào? Việc quản lý thuế đối với hộ kinh doanh được thực hiện ra sao? Bài viết này, với đề tài “Tìm hiểu việc thực thi pháp luật thuế áp dụng đối với hộ kinh doanh trên địa bàn Hà Nội và đề xuất ý kiến pháp lý”, sẽ điểm qua vài nét về thuế, hộ kinh doanh cũng như pháp luật thuế áp dụng đối với hộ kinh doanh, sau đó phân tích và đánh giá thực tiễn thực thi trên địa bàn Hà Nội và đưa ra ý kiến pháp lý về vấn đề này.
NỘI DUNG
I. Khái quát về thuế, hộ kinh doanh và pháp luật thuế áp dụng đối với hộ kinh doanh
1. Thuế
Cho đến nay trong các sách báo kinh tế thế giới vẫn chưa có thống nhất tuyệt đối về khái niệm thuế. Ở mỗi góc nhìn, quan điểm mà chúng ta có mỗi định nghĩa khác nhau về thuế. Một cách đơn giản nhất, có thể định nghĩa về thuế như sau: “Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định”. Thuế có một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, thuế có tính bắt buộc. Đây là một thuộc tính cơ bản của thuế, để phân biệt với các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước. Sự bắt buộc này là đối với cả người nộp thuế lẫn cơ quan thu thuế. Người nộp thuế có nghĩa vụ phải chuyển giao tài sản của họ cho nhà nước khi có đủ điều kiện, còn cơ quan thu thuế phải thực hiện hành vi thu thuế và thực hiện một cách rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, thuế có tính không hoàn trả trực tiếp. Đây là đặc điểm giúp phân biệt thuế với phí, lệ phí. Thuế không phải là khoản chi trả khi các đối tượng nộp thuế nhận được một lợi ích hay một sự phục vụ nào từ phía nhà nước, mà nó được hoàn trả gián tiếp, người nộp thuế sẽ được thụ hưởng những giá trị do nhà nước sử dụng các khoản thu từ thuế mang lại như sự yên bình xã hội, sự phát triển và thịnh vượng, chế độ phúc lợi công cộng.v..v..
Thứ ba, thuế có tính pháp lý cao. Có thể nói, thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao, được quyết định bởi quyền lực chính trị của nhà nước và quyền lực ấy được thể hiện bằng pháp luật.
Thuế có chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước và chức năng điều tiết kinh tế.
2. Hộ kinh doanh
Theo quy định tại khoản 1 điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Hộ kinh doanh có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp, nhưng là thương nhân. Mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh cũng hoạt động nghề nghiệp thường xuyên nhưng đây không phải là một loại hình doanh nghiệp. Hộ kinh doanh không có tư cách của doanh nghiệp, không có con dấu, không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện cũng như không được thực hiện các quyền mà doanh nghiệp có. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng nếu hộ kinh doanh có sử dụng từ mười lao động trở lên thì phải đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định – theo quy định tại khoản 3 điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP. Dù không phải là doanh nghiệp nhưng hộ kinh doanh vẫn là thương nhân, vì thỏa mãn các đặc điểm của thương nhân theo quy định tại điều 6 Luật Thương mại năm 2005: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.
Thứ hai, chủ hộ kinh doanh có thể là một cá nhân, một nhóm người hoặc một hộ gia đình. Các cá nhân này phải là công dân Việt Nam, đủ 18 tuổi và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Nếu hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, cá nhân đó có toàn quyền quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh, cũng giống như chủ doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp tư nhân. Còn đối với hộ kinh doanh do một nhóm người hoặc hộ gia đình làm chủ thì các hoạt động kinh doanh do các thành viên cùng quyết định.
Thứ ba, về tư cách pháp lý, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân. Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Được thành lập hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”
Tuy nhiên, hộ kinh doanh không thỏa mãn được tất cả các điều kiện này, vì vậy, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân.
Thứ tư, quy mô kinh doanh của hộ kinh doanh nhỏ. So với doanh nghiệp, hộ kinh doanh hầu như chỉ hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ, chủ yếu là phát triển kinh tế gia đình nhằm tăng thu nhập. Tuy nhiên, số lượng hộ kinh doanh lại khá đông, phạm vi phủ sóng rộng khắp các địa bàn, thậm chí là ở hầu hết các vùng địa lý trong cả nước và tham gia sản xuất, kinh doanh ở nhiều lĩnh vực, ngành, nghề khác nhau.
Thứ năm, về trách nhiệm tài sản, cá nhân, nhóm người hoặc các thành viên trong hộ chịu trách nhiệm vô hạn với mọi khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh. Việc trả nợ không phụ thuộc vào số tài sản mà họ có hay việc họ có đang thực hiện hoạt động kinh doanh hay không, mà bắt buộc phải trả đến hết.
Vậy, hộ kinh doanh là loại chủ thể kinh doanh đáp ứng được năm đặc điểm kể trên, tức là thỏa mãn quy định tại khoản 1 điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP. Bên cạnh đó, cũng cần phải lưu ý thêm rằng “hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định mức thu nhập thấp áp dụng trên phạm vi địa phương.” (khoản 2 điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP).
3. Pháp luật thuế đối với hộ kinh doanh
Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Với những đặc điểm, điều kiện của mình, hộ kinh doanh cần phải nộp các loại thuế như sau:
a, Thuế môn bài.
Cũng như các cơ sở kinh doanh, tổ chức kinh tế khác, hộ kinh doanh phải nộp thuế môn bài cho Nhà nước, căn cứ điều 1 Nghị định số 75/2002/NĐ-CP.
Về mức thuế môn bài, điểm 2 mục I Thông tư 96/2002/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 75/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc điều chỉnh mức thuế Môn bài quy định hộ kinh doanh cá thể nộp thuế môn bài theo biểu thuế sau:
Bậc thuế |
Thu nhập một tháng |
Mức thuế cả năm |
1 |
Trên 1.500.000 |
1.000.000 |
2 |
Trên 1.000.000 đến 1.500.000 |
750.000 |
3 |
Trên 750.000 đến 1.000.000 |
500.000 |
4 |
Trên 500.000 đến 750.000 |
300.000 |
5 |
Trên 300.000 đến 500.000 |
100.000 |
6 |
Bằng hoặc thấp hơn 300.000 |
50.000 |
Hộ kinh doanh mới thành lập, được cấp đăng ký thuế và mã số thuế trong thời gian của 6 tháng đầu năm thì nộp mức thuế môn bài cả năm, nếu thành lập, được cấp đăng ký thuế và mã số thuế trong thời gian 6 tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế môn bài cả năm. Hộ kinh doanh có thực tế kinh doanh nhưng không kê khai đăng ký thuế, phải nộp mức thuế môn bài cả năm không phân biệt thời điểm phát hiện là của 6 tháng đầu năm hay 6 tháng cuối năm
Về thời gian nộp thuế môn bài, có sự khác nhau giữa hộ kinh doanh mới thành lập và hộ kinh doanh đang sản xuất kinh doanh. Căn cứ quy định ở Thông tư 96/2002/TT-BTC, hộ kinh doanh đang sản xuất kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay tháng đầu của năm dương lịch, còn hộ kinh doanh mới ra kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay trong tháng được cấp đăng ký thuế và cấp mã số thuế.
Về địa điểm nộp thuế môn bài, hộ kinh doanh đăng ký đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế cấp nào thì nộp thuế môn bài tại cơ quan thuế cấp đó. Sau khi nộp thuế môn bài, hộ kinh doanh sẽ được Cơ quan thuế cấp một thẻ môn bài hoặc một chứng từ chứng minh đã nộp thuế Môn bài (biên lai thuế hay giấy nộp tiền vào ngân sách có xác nhận của kho bạc) ghi rõ tên hộ kinh doanh, địa chỉ, ngành nghề kinh doanh… làm cơ sở để xuất trình khi các cơ quan chức năng kiểm tra kinh doanh.
b, Thuế giá trị gia tăng (GTGT):
Điều 2 Luật Thuế GTGT hiện hành quy định: “Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Hộ kinh doanh là cơ sở sản xuất kinh doanh do một cá nhân, một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, nên căn cứ vào điều 4 Luật Thuế GTGT: “Người nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT (sau đây gọi là người nhập khẩu)”, hộ kinh doanh phải nộp thuế GTGT, trừ trường hợp sản xuất, kinh doanh hàng hóa thuộc điều 5 Luật thuế GTGT.
Số thuế GTGT mà hộ kinh doanh phải nộp tùy thuộc vào giá tính thuế và thuế suất của hàng hóa, dịch vụ mà hộ kinh doanh đó sản xuất, kinh doanh. Căn cứ điểm a khoản 2 điều 11 Luật Thuế GTGT, điểm a khoản 2 điều 8 Nghị định số 209/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thuế giá trị gia tăng, hộ kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng. Ngoài ra, “hộ kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật thì nộp thuế GTGT theo phương pháp khoán thuế quy định tại Điều 38 Luật quản lý thuế” (khoản 3 điều 8 Nghị định số 209/2013 /NĐ-CP. Trên thực tế, các hộ kinh doanh thường nộp thuế GTGT theo phương pháp khoán, với công thức tính như sau: thuế khoán thuế GTGT bằng biểu GTGT trên doanh thu của cục thuế ban hành nhân với doanh thu nhân với thuế suất thuế GTGT.
Hộ kinh doanh phải đăng ký nộp thuế GTGT với cơ quan thuế trực tiếp quản lý theo hướng dẫn của cơ quan thuế. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hộ kinh doanh mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hộ kinh doanh kê khai, nộp thuế GTGT tại địa phương nơi sản xuất, kinh doanh.
c, Thuế thu nhập cá nhân
Các cá nhân là chủ hộ kinh doanh có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình – là thu nhập chịu thuế theo quy định tại khoản 1 điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân. Vì vậy, căn cứ khoản 1 điều 2 Luật Thuế thu nhập cá nhân: “Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có phát sinh thu nhập chịu thuế theo quy định tại điều 3 của Luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.”, các cá nhân này phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Theo quy định tại khoản 1 điều 10 Luật Thuế thu nhập cá nhân: “Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh được xác định bằng doanh thu trừ các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế từ kinh doanh trong kỳ tính thuế.”. Tiếp đó, khoản 1 điều 21 Luật này quy định: “Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công là tổng thu nhập chịu thuế quy định tại điều 10 và điều 11 của Luật này, trừ các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm xã hội nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, quỹ hưu trí tự nguyện, các khoản giảm trừ quy định tại điều 19 và điều 20 của Luật này”. Thuế thu nhập cá nhân trong trường hợp này được tính theo biểu thuế lũy tiến từng phần.
Cá nhân có thu nhập chịu thuế thực hiện đăng ký thuế để được cơ quan thuế cấp mã số thuế và khai thuế, nộp thuế theo quy định tại điều 30 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân có thể được tính theo biểu tỷ lệ ấn định thu nhập chịu thuế trên doanh thu áp dụng đối với cá nhân kinh doanh ban hành kèm theo quyết định 16334/CT-QĐ ngày 30/12/2008 của Bộ Tài chính với công thức: thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân bằng tỷ lệ thu nhập chịu thuế tính trên doanh thu do cục thuế ban hành nhân với doanh thu.
II. Việc thực thi pháp luật thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn Hà Nội
1/ Khái quát thực trạng thu nộp thuế của hộ kinh doanh ở Hà Nội
Hà Nội là một trong những thành phố có sự phát triển kinh tế – xã hội hàng đầu quốc gia, số lượng hộ kinh doanh trên địa bàn Hà Nội rất nhiều. Tuy nhiên, công tác quản lý thuế hộ kinh doanh cá thể rất phức tạp, tốn nhiều công sức nhưng nguồn thu từ khu vực này không cao, chỉ chiếm tỷ lệ trên dưới 1% trong tổng thu nội địa hàng năm của thành phố. Theo đánh giá chung, nhân lực và thời gian thực hiện thu ngân sách nhà nước đối với số hộ kinh doanh hiện không tương xứng và hiệu quả thấp, hơn nữa việc thất thu vẫn còn diễn ra tương đối nhiều, nhất là tại các huyện ngoại thành. Hiện, Cục thuế Hà Nội quản lý 147.625 hộ kinh doanh, trong đó có 124.929 hộ kinh doanh nộp theo phương pháp khoán (trong đó số hộ dưới ngưỡng, không chịu thuế GTGT trên 52 nghìn hộ) nên số thu không được lớn. Trong khi đó, tính bình quân 1 cán bộ thuế quản lý trên dưới 250 hộ. Đây vừa là thực tiễn của Hà Nội, vừa là vấn đề chung của ngành thuế toàn quốc. Bà Nguyễn Thị Hạnh, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế thu nhập cá nhân, Tổng cục Thuế cho biết rằng: “Ngành thuế rất quan tâm tới công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh. Mặc dù số thu của đối tượng này chỉ khoảng 2% tổng thu ngân sách, song có tới 21% cán bộ ngành thuế trực tiếp quản lý thuế ở khu vực này, chưa tính tới cán bộ gián tiếp”. Theo số liệu của Tổng cục Thuế, tổng số lao động toàn ngành hiện có 44.860 người (cán bộ công chức thuế là 40.598), nếu tính 21% vậy số cán bộ thuế làm việc để thu 12.362 tỷ đồng là 10.000 người.
Mặt khác, quy mô kinh doanh của các hộ cá thể đa số nhỏ lẻ, chủ yếu một người kinh doanh; đối tượng kinh doanh thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, trình độ hiểu biết khác nhau; nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của nhiều hộ kinh doanh chưa cao. Tuy có hội đồng tư vấn thuế phường, xã, nhưng do số hộ kinh doanh nhiều, không kiểm soát hết, thiếu tiêu chí, cơ sở dữ liệu đánh giá, dễ dãi, buông lỏng quản lý. Hiện nay, có tình trạng hộ, cá nhân kinh doanh mặc cả doanh thu, chia số thuế phải nộp với cán bộ thuế, dẫn đến Nhà nước thất thu thuế, cán bộ thuế bị tha hóa, người kinh doanh không thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế. Một số trường hợp vi phạm, tiêu cực đã bị phát hiện, xử lý. Ngoài ra, quy định hộ kinh doanh phải tự nộp tiền thuế vào cơ quan Kho bạc hoặc Ngân hàng được ủy nhiệm thu là rất khó thực hiện do các hộ kinh doanh nhỏ lẻ… dẫn tới tình trạng nợ đọng thuế phát sinh.
Nhìn chung, công tác thu nộp thuế đối với hộ kinh doanh ở Hà Nội vẫn còn chưa tốt, hiệu quả chưa cao, với nhiều nguyên nhân xuất phát từ cả phía chủ thể nộp và chủ thể thu. Trước tình hình như vậy, các cơ quan thuế ở Hà Nội đã thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục thực trạng này. Phần dưới đây sẽ phân tích một số biện pháp đó và những thành quả đạt được, cũng như những hạn chế còn tồn tại.
2. Các biện pháp cơ quan thuế ở Hà Nội đã triển khai thực hiện
Có thể nói, những năm qua, các cơ quan thuế ở Hà Nội đã nỗ lực rất nhiều trong công tác quản lý thuế, thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để ngăn chặn những tiêu cực phát sinh trong quản lý và chống thất thu thuế đối với hộ kinh doanh.
Cục Thuế Hà Nội đã rất quyết liệt trong việc công khai thông tin để đảm bảo các hộ kinh doanh nhận thức, ý thức được đầy đủ về nghĩa vụ của mình. Cụ thể, Cục Thuế đã thường xuyên thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết công khai trên trang internet của Cục Thuế TP Hà Nội và tại trụ sở các Chi cục thuế mức doanh thu, mức thuế của từng hộ kinh doanh; thông báo đến từng hộ, cá nhân kinh doanh những thay đổi mới về chính sách thuế mới, các văn bản hướng dẫn hiện hành. Năm 2014, Tổng cục thuế thực hiện Quy chế Công khai thông tin hộ kinh doanh nộp thuế khoán trên Cổng thông tin điện tử ngành thuế. Theo đó, đã có trên 1 triệu hộ kinh doanh nộp thuế khoán công khai các thông tin về mã số thuế, tên hộ kinh doanh, địa chỉ kinh doanh, ngành nghề kinh doanh chính, tổng doanh thu trong năm, hoặc doanh thu dự kiến và tiền thuế phải nộp… Từ đó, người nộp thuế có thể giám sát cơ quan thuế, các hộ kinh doanh có thể giám sát lẫn nhau, công tác thu nộp thuế cũng được minh bạch hóa, đảm bảo khách quan và chính xác hơn. Triển khai Thông tư số 92/2015/TT-BTC, đề án “Công khai thông tin hộ thuế khoán đến từng người dân” được Cục Thuế Hà Nội thực hiện vào nửa sau năm 2015. Cụ thể, ngày 18-8-2015, Cục thuế thành phố đã tổ chức hội nghị triển khai thông tin công khai hộ khoán trên toàn địa bàn. Theo đó, tại trụ sở UBND phường, ban quản lý các chợ trên địa bàn thành phố Hà Nội niêm yết công khai bảng thông tin cá nhân kinh doanh của từng hộ gia đình với các thông tin chi tiết như ngành nghề kinh doanh, thu nhập hằng tháng, mức thuế phải đóng… Bà Nguyễn Thị Hải Yến, Trưởng phòng Tuyên truyền và Hỗ trợ người nộp thuế (Cục Thuế Hà Nội) cho biết: “Việc Cục Thuế Hà Nội triển khai đồng bộ các giải pháp sẽ khắc phục những hạn chế trong thời gian qua đối với công tác quản lý thuế hộ, cá nhân kinh doanh, nhất là triển khai xác định doanh thu, mức thuế của hộ, cá nhân kinh doanh phục vụ công tác lập bộ, duyệt bộ thuế của hộ, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định cho năm 2016”.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ, ngày 19/6/2015, Cục Thuế Hà Nội đã có công văn số 39852/CT-HTr thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng hướng dẫn các hộ, cá nhân kinh doanh trực tiếp nộp thuế tại điểm thu ngân sách nhà nước tại các Ngân hàng thương mại, tuyệt đối không nhờ cán bộ thuế nộp hộ. Riêng đối với các cá nhân, hộ kinh doanh ở các khu vực xa trung tâm hoặc không có điểm thu ngân sách nhà nước của Ngân hàng thương mại, các Chi cục Thuế đã tạo điều kiện bằng cách giao nhiệm vụ cho các cán bộ thuộc đội thuế liên xã, phường tổ chức thu thuế bằng biên lai theo quy định. Ngày 24/06/2015, Cục Thuế có công văn số 41339/CT-THNVDT triển khai thu thuế của hộ, cá nhân kinh doanh để đảm bảo việc thu thuế được thực hiện minh bạch và hiệu quả. Theo đó, các Chi cục thuế báo cáo và phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức thu thuế bằng biên lai tại một số điểm tập trung ở trụ sở UBND xã/phường/thị trấn, Ban quản lý chợ, nhà văn hóa phường/thôn…Ở mỗi điểm thu bố trí 02 cán bộ thuế dưới sự giám sát của chính quyền địa phương, và phải thông báo các điểm thu đến các hộ kinh doanh, cá nhân trên địa bàn biết để thực hiện. Cục Thuế cũng yêu cầu các Chi cục Thuế rà soát thống kê các điểm thu ngân sách nhà nước mà Cục Thuế, cơ quan Kho bạc đã ký quy chế thỏa thuận thu ngân sách nhà nước với các Ngân hàng thương mại, từ đó đề xuất số điểm cần mở thêm nếu thấy có nhu cầu. Trên cơ sở đó, Cục thuế TP Hà Nội đã có công văn đề nghị các Ngân hàng thương mại mở thêm 49 điểm thu, nâng số điểm phối hợp thu ngân sách nhà nước với các Ngân hàng từ 172 điểm thu lên 221 điểm thu tại các quận, huyện trên địa bàn Thành phố. Rõ ràng, trong công tác thu thuế đối với hộ kinh doanh, Cục Thuế Hà Nội đã cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ kinh doanh để các hộ có thể thực hiện một cách tốt nhất nghĩa vụ của mình, dù ở nội thành hay ngoại thành, xa hay gần điểm thu ngân sách…
Phối hợp chặt chẽ với Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng là một trong những biện pháp mà Cục Thuế Hà Nội đã thực hiện, đặc biệt là kể từ ngày 1/7/2015 – ngày Luật Doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực thi hành. Cơ quan thuế phối hợp với cơ quan kế hoạch đầu tư trong việc triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp mới trong việc quản lý thu thuế đối với những hộ kinh doanh lớn – đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 (hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp) nhưng không hoặc chưa đăng ký thành lập doanh nghiệp – với định hướng thúc đẩy, hỗ trợ các hộ đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp theo quy định. Thực hiện quy định hóa đơn điện tử có sự hỗ trợ, kiểm soát của cơ quan thuế đối với những hộ kinh doanh có quy mô lớn thuộc đối tượng rủi ro cao về thuế. Đồng thời, thực hiện kết nối thông tin online giữa doanh nghiệp, hộ kinh doanh lớn thuộc đối tượng rủi ro cao về thuế với cơ quan thuế về thông tin sử dụng hóa đơn, doanh số bán hàng của đơn vị. Bên cạnh đó, ngày 23/02/2016, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-BKHĐT-BTC hướng dẫn việc trao đổi thông tin về doanh nghiệp giữa Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và Hệ thống thông tin thuế. Đây là một căn cứ pháp lý quan trọng, tạo động lực và thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa cơ quan thuế và cơ quan kế hoạch đầu tư, từ đó mang lại hiệu quả trong việc quản lý thuế đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh nói chung.
Song song với các biện pháp trên, cơ chế ủy nhiệm thu cũng là một giải pháp tháo gỡ được nhiều khó khăn và mang lại hiệu quả cho việc thu thuế ở Hà Nội. Cục Thuế Hà Nội bắt đầu triển khai thí điểm ủy nhiệm thu thuế với cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán tại 3 chi cục thuế là Đống Đa, Thanh Trì và Hai Bà Trưng từ cuối tháng 12/2015. Mấu chốt của chính sách này là việc chuyển nhiệm vụ thu thuế của các hộ khoán từ cán bộ thuế sang các đơn vị, tổ chức có đủ năng lực, kinh nghiệm, có điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin trong thanh toán để giảm chi phí xã hội và tạo thuận lợi nhất cho người nộp thuế, đồng thời đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ thu ngân sách được giao với tỷ lệ nợ đọng tối thiểu. Theo đó, Cục Thuế Hà Nội đã ký thỏa thuận hợp tác với 3 đơn vị là Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Tổng công ty viễn thông Viettel và Tổng công ty bưu điện Việt Nam (Viet Nam Post) triển khai thí điểm chính sách này. Theo đó, 3 chi cục thuế tham gia chương trình thí điểm đã báo cáo UBND quận, huyện phối hợp chỉ đạo, triển khai công tác tuyên truyền, đồng thời cử cán bộ phối hợp với nhân viên ủy nhiệm thu giới thiệu với người nộp thuế và UBND phường xã về chủ trương nội dung, ý nghĩa của việc thực hiện cơ chế mới. Chính sách này bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan cho Hà Nội.
Nói về lộ trình cải cách quản lý thuế thì không thể không nhắc đến bước tiến của Thông tư 92/2015/TT-BTC – văn bản pháp luật đã mang đến nhiều đổi mới để hiện đại hóa ngành thuế. Chính việc triển khai thực hiện thông tư này cũng đã mang đến những hiệu quả nhất định cho địa bàn Hà Nội. Thông tư 92/2015/TT-BTC quy định cụ thể rất nhiều điều trong các hoạt động kinh doanh của các hộ kinh doanh và những chính sách về các khoản không tính thuế thu nhập cá nhân, góp phần giảm nhiều thủ tục cho người nộp thuế. Theo đó, từ năm 2015, cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán được quy định là những đối tượng kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh (trừ cá nhân kinh doanh thuộc diện nộp thuế theo từng lần phát sinh, cá nhân cho thuê tài sản, cá nhân làm đại lý bán đúng giá), không phân biệt có thực hiện chế độ sổ sách, hoá đơn, chứng từ hay không như trước đây – theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 2 Thông tư này. Từ ngày 1/1/2016, đối với cá nhân nộp thuế khoán có sử dụng hóa đơn của cơ quan thuế thì doanh thu tính thuế được căn cứ vào doanh thu khoán và doanh thu trên hoá đơn, không phân biệt hoá đơn sử dụng theo quyển hay lẻ theo từng số. Còn cá nhân kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành, nghề thực hiện khai và tính thuế theo từng lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh thay vì áp dụng theo tỷ lệ thu nhập chịu thuế ấn định của 1 ngành, nghề kinh doanh chính. Về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, thông tư còn đưa ra rất nhiều quy định mới khác để việc thực hiện được dễ dàng hơn, công khai và minh bạch hơn… Thực hiện thông tư này, Cục Thuế Hà Nội đã triển khai hàng loạt các giải pháp nhằm cụ thể hoá công tác quản lý thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh trên địa bàn như: thành lập tổ hỗ trợ thực hiện công khai thông tin hộ khoán nhằm hướng dẫn các chi cục thuế thực hiện công tác công khai thông tin hộ khoán; hỗ trợ các chi cục thuế tiếp nhận, xử lý thông tin phản hồi của người nộp thuế, phản ánh của dư luận xã hội và các cơ quan báo chí, truyền thông; ban hành công văn tuyên truyền Thông tư số 92 và chỉ đạo các phòng, các chi cục thuế tăng cường công tác quản lý thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh, công khai doanh thu và mức thuế khoán chậm nhất là ngày 30/8/2015…
3. Kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn đọng
Với những nỗ lực và nhiều giải pháp để đẩy mạnh công tác thu thuế đối với hộ kinh doanh, tháo gỡ những khó khăn, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh đồng thời thuận lợi cho đơn vị thu thuế, thành phố Hà Nội đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Những năm gần đây, nhìn chung số thu ngân sách của năm sau luôn cao hơn năm trước. Cụ thể số thu năm 2011 đạt 1.112 tỷ đồng (trong đó thuế môn bài, thuế GTGT là 781 tỷ đồng, thuế Thu nhập cá nhân là 332 tỷ đồng); năm 2012 đạt 1.193 tỷ đồng; năm 2013 là 1.276 tỷ đồng; ước thực hiện trong 6 tháng đầu năm 2014 là 694 tỷ đồng (trong đó thuế môn bài và thuế GTGT là 524 tỷ đồng, thuế Thu nhập cá nhân là 170 tỷ đồng).
Việc công khai thông tin rộng rãi, đồng thời thông báo đến tự hộ kinh doanh đã khắc phục đáng kể những hạn chế trong công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh ở Hà Nội. Công khai thông tin hộ thuế khoán rõ ràng làm minh bạch hóa việc thu thuế, giảm thiểu rõ rệt việc thất thu và tạo được sự đồng tình, ủng hộ của các hộ kinh doanh. Triển khai thực hiện thông tư 92/2015/TT-BTC mang đến cho công tác quản lý thuế ở Hà Nội rất nhiều hiệu ứng tích cực, tạo thuận lợi cho cả người thu lẫn người nộp, triệt tiêu bớt những tiêu cực trong thu thuế cũng như tình trạng thất thu thuế, từng bước hiện đại hóa việc thu nộp thuế nói chung.
Đặc biệt, chính sách ủy nhiệm thu, qua hơn 3 tháng triển khai đã tạo tâm lý rất tốt cho cá nhân, hộ kinh doanh, nhận được nhiều sự đồng tình, ủng hộ. Nếu như trước đây các hộ kinh doanh phải trực tiếp mang tiền đến các điểm giao dịch của ngân hàng để nộp thuế, mất nhiều thời gian và công sức, nhất là trong những ngày cao điểm, thì bây giờ, với chính sách ủy nhiệm thu, các hộ kinh doanh có thể nộp qua tin nhắn điện thoại, nộp qua máy thu tiền (POS), nộp trực tiếp tại các điểm thu của đơn vị ủy nhiệm thu hoặc thông qua nhân viên đến thu trực tiếp tại địa chỉ kinh doanh. Rõ ràng là cơ chế này tạo thuận lợi hơn rất nhiều cho hộ kinh doanh trong việc nộp thuế. Nhờ đó, sau 3 tháng triển khai, các đơn vị ủy nhiệm thu đã thu được 52,4 tỷ đồng, đạt 110% số thuế ghi thu (do thu cả số nợ năm trước chuyển sang). Đây là một trong những kết quả rất đáng ghi nhận của Cục Thuế Hà Nội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả bước đầu khả quan ấy, vẫn còn những hạn chế nhất định mà hiện nay các đơn vị thu thuế ở Hà Nội vẫn chưa khắc phục được. Với chính sách ủy nhiệm thu, vẫn còn những vướng mắc như: danh sách các hộ cá nhân kinh doanh đã thực hiện nộp thuế tại ngân hàng thương mại vẫn chưa được cập nhật hàng ngày (trễ khoảng 1-2 ngày) dẫn đến tình trạng một số đơn vị nhận ủy nhiệm vẫn đôn đốc nộp thuế trong khi hộ kinh doanh đã hoàn thành nghĩa vụ của mình, hay đối với đơn vị nhận ủy nhiệm thu thực hiện thu thuế vào thời điểm ngày cuối cùng của quý, do quá thời gian giao dịch của các ngân hàng thương mại nên cán bộ ủy nhiệm thu phải nộp tiền vào ngày tiếp theo, gây khó khăn trong việc hạch toán, điều chỉnh trên phần mềm quản lý thuế hoặc phát sinh khoản phạt nộp chậm. Bên cạnh đó, với cơ chế này, đơn vị ủy nhiệm thu phải mất thời gian đối chiếu, kiểm tra số thuế còn nợ đối với trường hợp hộ kinh doanh ngừng nghỉ rồi kinh doanh trở lại, dẫn đến mất thời gian, giảm hiệu quả của công tác thu thuế.
Tình trạng cán bộ thu thuế gây khó dễ cho hộ kinh doanh hoặc tiêu cực trong công tác thu thuế vẫn còn xảy ra, thậm chí cán bộ thu thuế và hộ kinh doanh cùng bắt tay với nhau để gian lận. Việc cán bộ thuế tiếp xúc trực tiếp với hộ kinh doanh, thiếu cơ chế giám sát hiệu quả đẫn đến các cán bộ thuế có thể “ăn vặt”, thậm chí “ăn lớn” – kết quả điều tra xã hội của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Phát triển cộng đồng (CECODES), thành viên của Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam một lần nữa đã khẳng định lại điều này. Bên cạnh thực tế nhức nhối về việc ăn chia tiền thuế của các cán bộ thuế, còn một thực tế tiêu cực không kém là việc cán bộ thuế và hộ kinh doanh thông đồng với nhau, cuối cùng ngân sách nhà nước bị thiệt hại. Kết quả một cuộc khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển hỗ trợ cộng đồng (Cecodes) cho thấy với thuế môn bài, loại thuế dựa vào doanh thu, từ 50.000 đồng đến 1 triệu đồng/năm, có tới 30% hộ kinh doanh khai doanh thu thấp đi để hưởng mức thuế thấp hơn. Có 6% số hộ thừa nhận hối lộ để trả mức thuế thấp hơn. Với thuế thu nhập cá nhân và thuế giá trị gia tăng (từ 0,5-5% doanh thu hàng năm), 14% số hộ thừa nhận hối lộ để có mức thuế thấp hơn. Có tới 63% số hộ khẳng định “luôn xảy ra” khi được hỏi cảm nhận về mức độ thỏa thuận ngầm giữa hộ kinh doanh và cán bộ thuế. Nếu nhận được lời đề nghị hai bên bắt tay để cùng có lợi thì một nửa số hộ sẵn sàng chấp nhận, nếu cái giá phải trả hợp lý. Rõ ràng, việc khoán thuế hạn chế được nhiều tiêu cực trong thu nộp thuế, nhưng tình trạng “ăn chia” vẫn còn diễn ra nhiều và chưa thực sự được cải thiện.
III. Đề xuất ý kiến pháp lý
Như đã phân tích ở phần trên, công tác quản lý thuế ở Hà Nội đã có nhiều bước tiến rõ nét qua từng năm. Tuy nhiên, nhiều hạn chế vẫn còn đó, vẫn còn tồn tại như những rào cản cản trở sự phát triển của ngành thuế ở thủ đô. Thiết nghĩ rằng, chúng ta còn cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa, thực hiện nhiều giải pháp hơn nữa để giải quyết vấn đề triệt để hơn, để tạo lập sự trong sạch và hiệu quả bền vững cho vấn đề quản lý thuế ở Hà Nội. Sau đây là một số ý kiến, giải pháp mà người viết đề xuất đối với vấn đề này.
Thứ nhất, hiện nay các văn bản pháp luật quy định về phương pháp khoán thuế đã có quy định khá đầy đủ và tích cực. Đây là phương pháp cần được triển khai thực hiện một cách rộng rãi và triệt để, vì nó thực sự phù hợp với thực tế thu nộp thuế của hộ kinh doanh ở Hà Nội và chắc chắn sẽ còn mang lại nhiều hiệu quả hơn nữa. Bởi vậy, Cục Thuế cũng như các Chi cục cần có quy định chi tiết hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các quy định về khoán thuế, để đảm bảo cán bộ cũng như người dân đều hiểu rõ, hiểu đúng bản chất và lợi ích của phương pháp này. Từ đó nhằm đảm bảo việc triển khai thực hiện trên thực tế đạt được nhiều thành quả tốt hơn.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với công tác quản lý thuế. Để đảm bảo cho việc thu thuế được thực hiện chính xác và hiệu quả thì không thể thiếu đi sự tồn tại của một cơ chế giám sát chặt chẽ. Và để có một cơ chế kiểm tra giám sát tốt thì trước hết pháp luật về mảng này phải thực sự khách quan, chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh tra, giám sát là tiền đề để đảm bảo việc thực thi pháp luật thuế được hiệu quả. Bên cạnh đó, Cục Thuế Hà Nội cũng có thể căn cứ tình hình thực tiễn việc thu thuế ở trên các khu vực mà đặt ra cơ chế giám sát phù hợp với từng khu vực một. Ví dụ, ở những nơi xa điểm thu ngân sách nhà nước của các Ngân hàng thương mại thì phải tìm cách đẩy mạnh sự giám sát của chính quyền địa phương nơi đó hơn nữa đối với cán bộ thu thuế, hoặc đặt ra trách nhiệm liên đới đối với cả cán bộ lẫn chính quyền nơi đó nếu có xảy ra sai lệch trong việc công tác thu thuế…
Thứ ba, minh bạch việc xác định doanh thu khoán và số thuế khoán phải nộp với sự tham gia của các cấp, ngành trong Hội đồng tư vấn thuế xã phường và sự tham gia giám sát của người dân, từ đó giảm thiểu tối đa tình trạng “thông đồng, thỏa thuận” về mức thuế phải nộp bằng cách hoàn thiện quy trình quản lý thuế đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán theo hướng xây dựng bộ cơ sở dữ liệu về doanh thu khoán và mức thuế khoán trên địa bàn theo các chỉ tiêu kinh doanh như: ngành nghề, diện tích, thời gian, số lượng lao động, số lượng hóa đơn sử dụng, theo địa bàn đường phố, phường/quận, thôn, xã/ huyện… Từ đó xây dựng bộ tiêu chí quản lý thuế theo rủi ro đối với hộ kinh doanh, tăng cường sự giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế cấp trên khi lập, duyệt Sổ bộ thuế, tăng cường trách nhiệm quản lý thuế của cán bộ thuế (Tổng cục thuế đã ban hành bản mô tả vị trí công việc của cán bộ thuế ở cấp chi cục thuế). Thực hiện công khai thông tin hộ khoán hàng năm, cập nhật sự thay đổi hàng tháng; công khai đường dây nóng nhận phản ánh của người dân; triển khai đề án đánh giá hiệu lực hiệu quả của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường để tăng cường, nâng cao vài trò và sự giám sát của các các cấp các ngành.
Thứ tư, tiếp tục rà soát các quy định pháp luật về thuế áp dụng đối với hộ kinh doanh nói chung, để từ đó loại bỏ những quy định nào bất cập, chồng chéo hoặc lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn. Một hệ thống pháp luật tốt và đồng bộ sẽ là nền tảng vững chắc để việc thực thi pháp luật tiến triển tốt, vừa đảm bảo nguồn thu của ngân sách nhà nước vừa đảm bảo quyền lợi của các hộ kinh doanh.
Thứ năm, phải tăng cường giải quyết khiếu nại. Cơ quan thuế phải thực hiện đúng quy định Nghị quyết 19 về việc cơ quan thuế thực hiện giải quyết khiếu nại đúng quy định. Tăng cường thanh tra, kiểm tra của các cục thuế với các chi cục. Thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, sẽ phát hiện sai phạm của cán bộ thuế, từ đó phải kiên quyết xử lý các sai phạm để đảm bảo quyền lợi của người dân, của các hộ kinh doanh.
Bên cạnh các giải pháp pháp lý, cơ quan thuế Hà Nội còn có thể thực hiện nhiều biện pháp khác như: nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tăng cường kỷ luật kỷ cương cán bộ thuế; tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ của cơ quan thuế đối với hộ kinh doanh phù hợp với mô hình, hình thức kinh doanh của lĩnh vực này; tranh thủ sự hỗ trợ, phối hợp của các ban ngành tổ chức chính trị, xã hội trên địa bàn trong việc tuyên truyền khi niêm yết công khai lấy ý kiến về doanh thu, mức thuế khoán, điều tra doanh thu khoán, rà soát đối tượng quản lý thuế; tuyên truyền, tuyên dương khen thưởng người nộp thuế tự giác chấp hành pháp luật về thuế đúng quy định, tố cáo các trường hợp cán bộ thuế có các hành vi vi phạm quy định của Luật quản lý thuế, Luật công chức… Cải cách thủ tục hành chính cũng là một trong những giải pháp rất hữu hiệu để công tác quản lý thuế được thực hiện tốt hơn. Ví dụ, đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin với các khâu của quá trình quản lý, thực hiện nộp thuế điện tử…
Ngoài ra, nhân rộng việc thực hiện cơ chế ủy nhiệm thu cũng là một trong những giải pháp mà Cục Thuế Hà Nội có thể áp dụng. Tuy nhiên, trước khi triển khai thực hiện cơ chế này trên toàn địa bàn thành phố, cần phải tìm cách khắc phục những hạn chế, vướng mắc của quá trình thực hiện.
Cần sớm nâng cấp ứng dụng TMS[1], hỗ trợ truyền dữ liệu danh sách các cá nhân kinh doanh đã nộp thuế trực tiếp từ các ngân hàng thương mại đến các đơn vị nhận UNT, đồng thời thực hiện hạch toán bù trừ hàng ngày trên ứng dụng TMS đối với các khoản thu qua ủy nhiệm để cập nhật thông tin chính xác, kịp thời, hỗ trợ hiệu quả cho công tác đôn đốc thu thuế…
[1] Tax Managment System: Ứng dụng Hệ thống quản lý thuế tập trung – là hệ thống quản lý thuế tích hợp cho phép quản lý và lưu trữ tập trung thông tin quản lý tất cả các sắc thuế trên phạm vi toàn quốc để đáp ứng các nghiệp vụ quản lý thuế tập trung. Ứng dụng TMS được triển khai sẽ thay thế toàn bộ 16 ứng dụng hỗ trợ công tác quản lý thuế đang triển khai tại Cục Thuế và Chi cục thuế, đáp ứng được toàn bộ các khâu xử lý dữ liệu cho các quy trình nghiệp vụ như: Đăng ký thuế, Quản lý hồ sơ, Quản lý và Xử lý kê khai/quyết toán thuế, Kế toán thuế nội địa, Quản lý nợ, Sổ sách, Báo cáo phân tích, đánh giá.
KẾT LUẬN
Như vậy, việc thực thi pháp luật thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn Hà Nội trong những năm gần đây đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng các cơ quan thuế ở Hà Nội cũng đã và đang tiếp tục triển khai những giải pháp để tháo gỡ khó khăn, thực hiện việc thu thuế hiệu quả hơn đối với các hộ kinh doanh nói riêng và các đối tượng nộp thuế nói chung. Thiết nghĩ rằng, các cơ quan có thẩm quyền ở Hà Nội vẫn còn phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong công tác quản lý thuế, bởi chừng nào việc thu nộp thuế còn chưa được thực hiện tốt thì chừng đó ngân sách nhà nước vẫn còn có những tỷ lệ thiệt hại nhất định.
*Vui lòng xem mục Bản quyền khi muốn sử dụng lại bài viết của Tôi học nghề luật.

